In silico là gì? Các công bố khoa học về In silico
"In silico" là một thuật ngữ xuất phát từ tiếng Latin, có nghĩa là "trong máy tính". Thuật ngữ này thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học, đặc biệt là tron...
"In silico" là một thuật ngữ xuất phát từ tiếng Latin, có nghĩa là "trong máy tính". Thuật ngữ này thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực sinh học, để chỉ các phương pháp và công nghệ sử dụng máy tính để thực hiện các mô phỏng, phân tích, dự đoán và tìm hiểu các quá trình sinh học và hóa học. Các phương pháp "in silico" giúp tiết kiệm thời gian, nguồn lực và chi phí so với các phương pháp truyền thống, đồng thời cung cấp những thông tin quan trọng để hiểu và nghiên cứu các hiện tượng sinh học và hóa học.
"In silico" là một thuật ngữ chỉ việc sử dụng phần mềm và công nghệ máy tính để thực hiện các mô phỏng, phân tích và dự đoán các hiện tượng trong các lĩnh vực như sinh học, hóa học, dược học và y học. Thay vì thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên thực tế, các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng các mô hình toán học và dữ liệu số để thực hiện các thí nghiệm ảo.
Phương pháp "in silico" bao gồm sử dụng các phần mềm mô phỏng, các công cụ và thuật toán tính toán để tạo ra mô hình số, nhắm mục tiêu nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của một quá trình sinh học hoặc hóa học. Các mô hình "in silico" có thể mô phỏng các hiện tượng từ cấp độ phân tử, tế bào, mạng lưới sinh học, đến cấp độ cơ thể hoặc dân số.
Các phương pháp "in silico" được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm:
1. Mô phỏng phân tử: Sử dụng các công cụ mô phỏng để dự đoán cấu trúc phân tử, tương tác giữa phân tử và dự đoán tính chất của các hợp chất.
2. Dự đoán tác động dược lý: Sử dụng phần mềm và thuật toán để dự đoán tác động của các thuốc và chất hoạt động lên các mục tiêu dược lý, giúp nghiên cứu viên phát triển và tìm kiếm các dược phẩm tiềm năng.
3. Mô phỏng dòng chảy máu và tuần hoàn: Sử dụng các mô hình số để mô phỏng dòng chảy máu trong các mạch máu, tìm hiểu hiệu ứng của huyết áp, dòng chảy và loại bỏ chất có hại.
4. Mô phỏng mạng lưới sinh học: Mô phỏng và phân tích các mạng lưới sinh học phức tạp như mạng lưới tế bào, mạng lưới gene, để hiểu sự giao tiếp giữa các thành phần và tính toán các tác động của các thay đổi trong mạng lưới.
Phương pháp "in silico" đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thời gian, nguồn lực và chi phí cần thiết cho nghiên cứu, đồng thời cung cấp những kiến thức quan trọng về các hiện tượng sinh học và hóa học. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các mô hình "in silico" cần được xây dựng và kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của kết quả.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "in silico":
Trong công trình này, chúng tôi đã thiết kế và phát triển hai công cụ Web dễ sử dụng cho phép
Sự động học của quá trình oxy hóa nhiệt của silicon được khảo sát một cách chi tiết. Dựa trên một mô hình đơn giản về quá trình oxy hóa, mô hình này xem xét các phản ứng diễn ra tại hai ranh giới của lớp oxit cũng như quá trình khuếch tán, mối quan hệ tổng quát x02+Ax0=B(t+τ) được rút ra. Mối quan hệ này cho thấy sự phù hợp xuất sắc với dữ liệu oxy hóa thu được trên một dải nhiệt độ rộng (700°–1300°C), áp suất một phần (0.1–1.0 atm) và độ dày oxit (300–20 000 Å) cho cả chất oxy hóa là oxy và nước. Các tham số A, B, và τ được chứng minh là có liên quan đến hằng số vật lý-hóa học của phản ứng oxy hóa theo cách được tiên đoán. Phân tích chi tiết này cũng dẫn đến thông tin thêm về bản chất của các loài được vận chuyển cũng như ảnh hưởng của điện tích không gian lên giai đoạn đầu của quá trình oxy hóa.
Liều lượng boron từ 1×10¹²–5×10¹⁵/cm² được cấy vào các màng polysilicon dày 1 μm ở mức 60 keV. Sau khi nung ở 1100°C trong 30 phút, các phép đo Hall và điện trở được thực hiện ở khoảng nhiệt độ từ −50–250°C. Kết quả cho thấy Hall mobility có mức tối thiểu vào khoảng 2×10¹⁸/cm³ với nồng độ pha tạp. Năng lượng kích hoạt điện được tìm thấy xấp xỉ một nửa giá trị khe năng lượng của silicon đơn tinh thể cho các mẫu pha tạp nhẹ và giảm xuống dưới 0,025 eV ở mức pha tạp 1×10¹⁹/cm³. Nồng độ hạt dẫn rất nhỏ ở mức pha tạp dưới 5×10¹⁷/cm³ và tăng nhanh với sự gia tăng nồng độ pha tạp. Tại mức pha tạp 1×10¹⁹/cm³, nồng độ hạt dẫn đạt khoảng 90% nồng độ pha tạp. Một mô hình ranh giới hạt có bao gồm các trạng thái bắt giữ đã được đề xuất. Nồng độ và độ di động của hạt dẫn theo nồng độ pha tạp và tính di động cùng điện trở theo nhiệt độ được tính toán từ mô hình. Các kết quả lý thuyết và thực nghiệm được so sánh, và thấy rằng mật độ trạng thái bắt giữ tại ranh giới hạt là 3,34×10¹²/cm² nằm tại 0,37 eV phía trên rìa băng hóa trị.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10